Vào một ngày đen tối trong năm 1968, trong gian phòng trống trải, lạnh lẽo tôi đã uống tất cả những viên thuốc mà tôi có thể kiếm được từ trong phòng trực của bệnh viện, để chấm dứt cuộc đời vô vọng của mình. Nước mắt chan hòa với nỗi bi thương, tôi nằm chờ vĩnh biệt cuộc sống nhỏ nhoi, từ từ đi vào hôn mê, bất tỉnh…
CHÚA ĐỔI THAY ĐỜI CON
Xưa kia tôi quá dại khờ,
Nhờ ơn Cứu Chúa bây giờ tôi khôn.
Xưa như người chết chưa chôn!
Bây giờ có Chúa tâm hồn thảnh thơi.
Xưa hay trách móc “ Ông Trời”
Than thân khóc hận cuộc đời rủi may.
Xưa tôi vô dụng bất tài,
Nay tôi nhờ Chúa đổi thay đời mình.
Xưa tôi chẳng có niềm tin,
Bây giờ có Đức Thánh Linh ở cùng.
Dầu cho sóng gió bão bùng,
Họa tai thử thách, hãi hùng, hiểm nguy.
Vững tin Cứu Chúa bước đi,
Ngài là Đấng Thánh Từ Bi Nhân Lành.
Nguyện Cha mãi mãi sáng Danh,
Dâng Chúa Cứu Thế làm thành đời con.
Tôi được sanh tại Long An, Việt Nam và là người chị cả trong một gia đình gồm có tám chị em. Cha mẹ tôi luôn đòi hỏi cao nơi người làm chị cả như tôi, để làm gương tốt cho các em, tôi đã được cha mẹ giáo dục kỷ lưỡng và nghiêm khắc đối với đời sống đạo đức và tư cách của mình. Gia đình tôi thờ cúng tổ tiên rất nghiêm túc như hầu hết những gia đình Việt Nam truyền thống bấy lâu nay. Cho đến năm tôi được mười hai tuổi, tôi đã gia nhập vào gia đình Phật Tử ở chùa tại địa phương gần nhà chúng tôi sinh sống. Từ đó, tôi kỉnh kiền sùng bái tín ngưỡng mà gia đình chúng tôi hướng theo, tụng kinh niệm Phật tìm phước đức và sự bình an cho gia đình. Tôi thường ra vào chùa làm công quả để được ăn cơm, chia xẻ bớt gánh nặng cho một gia đình nghèo, đông miệng ăn như gia đình chúng tôi.
Cha mẹ tôi làm nghề thợ máy, làm lụng vất vả sớm chiều, chỉ để vừa đủ chi phí cho cả gia đình có cơm canh đạm bạc và tạo cơ hội cho các con được cấp sách đến trường, hầu cho tương lai của chúng tôi có nhiều hy vọng và sáng lạng hơn. Thời thế chiến tranh tại quê hương Việt Nam đã ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời niên thiếu của tôi. Tết Mậu Thân, năm 1968, đã đánh dấu trong lịch sử một cuộc chiến đau thương cho dân tộc, và để lại trong lòng tôi một nỗi kinh hoàng, bi thương khó quên. Chiến tranh đã cất đi bốn người thân trong dòng họ gần gũi với chúng tôi trong cùng một thời gian. Ngày đêm bom đạn dội tứ phía, khiến nhà cửa, trường học bị nổ tung, nhiều người hàng xóm, thầy cô và bạn bè cùng trường tôi bị tử nạn. Chứng kiến những cảnh thương vong, máu đổ và mất mát dồn dập thật là hãi hùng cho một cô bé yếu đuối dưới tuổi vị thành niên như tôi. Những cảnh tượng ấy đã ám ảnh, ảnh hưởng đến tâm lý khiến tôi bị hụt hẫng, mất đi phương hướng cho bản thân mình trong nhiều năm trường!
Cảm thông cho những tan thương của đồng loại và nỗi gian khổ của cha mẹ khiến tôi quyết định chọn ngành y tá để vào trường học, mong rằng nghề nghiệp này sẽ giúp đỡ một phần kinh tế cho cha mẹ nuôi các em khôn lớn, là một nền tảng để tôi có thể xoa dịu những tổn thương trong lòng, băng bó những vết thương thể xác cho những ai đang cần sự cứu giúp. Ra trường, tôi được nhận vào Chẩn Y Viện Phú Thọ để thực tập. Tôi vui mừng, hớn hở tận hưởng một tương lai tốt đẹp khởi đến!
Thời gian thấm thoát trôi, thì mối tình đầu của tôi cũng vừa chớm nở thật nhẹ nhàng và trong sáng. Tôi thầm tạ ơn Trời và hạnh phúc với những gì mình đang có. Khi mọi sự tưởng chừng như êm đẹp và thơ mộng như những câu chuyện tình lãng mạn. Đau buồn thay, thực tế phũ phàng, đem đến những cơn mưa lạnh buốt từ người cha phong kiến và nho giáo của tôi. Tình yêu của chúng tôi bị đe dọa và ngăn cản vì những sự khác biệt giữa hai chúng tôi. Cha tôi kiên trì phản đối mãnh liệt, khiến chúng tôi phải chia tay, đầu hàng cha trong tuyệt vọng và đau khổ.
Vào một ngày đen tối trong năm 1968, trong gian phòng trống trải, lạnh lẽo tôi đã uống tất cả những viên thuốc mà tôi có thể kiếm được từ trong phòng trực của bệnh viện, để chấm dứt cuộc đời vô vọng của mình. Nước mắt chan hòa với nỗi bi thương, tôi nằm chờ vĩnh biệt cuộc sống nhỏ nhoi, từ từ đi vào hôn mê, bất tỉnh!
Tôi đã được đem đi cấp cứu và đã tỉnh lại ba ngày sau đó. Biết mình vẫn còn sống, nhưng cuộc đời cũng chẳng có gì thay đổi, tôi chỉ biết thở dài với nỗi chán chường! Xót xa cho người yêu, than thân cho số phận của mình, tôi đã nhìn đời sống con người thật là vô nghĩa! Suy nghĩ ấy cứ day dứt trong tâm trí tôi, khiến tôi quyết định quy y làm ni cô nơi cửa Phật.
Đời sống tu hành nơi cửa Từ Bi đã không xoa dịu được những tổn thương trong cõi lòng sâu thẳm của tôi. Cô đơn, tuyệt vọng và đau khổ cứ bám víu tôi, tôi muốn kêu gào cùng một Đấng nào đó có thể cứu vớt tôi, nhưng tôi vẫn triền miên giữa bóng đêm của cuộc đời mình. Sáu năm trường tụng kinh, niệm Phật, làm nhiều điều thiện, tôi vẫn không tìm được sự bình an cho tâm hồn, đời sống vẫn trống không như trong Thánh kinh đã ghi lại “Vô nghĩa của mọi vô nghĩa, tất cả chỉ là vô nghĩa…Tôi đã thấy mọi sự được làm ra dưới ánh mặt trời; và này, tất cả đều vô nghĩa và là công dã tràng xe cát.” Truyền-đạo 1:2,14
Vài năm sau, tôi nhận được tin buồn từ thôn quê cho biết người yêu của tôi mới vừa được cứu sau khi tự tử thất bại. Tại nơi chốn Phật đường, yên tịnh, thê lương… tôi âm thầm ngăn lại những giọt nước mắt cứ muốn tuôn rơi… nghẹn lời, chua xót tôi chẳng biết tâm sự cùng ai!
Đến tháng 04 năm 1975, diễn biến của đất nước thay đổi, nên tôi đã hoàn tục trở về quê sống với gia đình, mang theo một đứa con lai, mồ côi cha mẹ vì một tai nạn giao thông. Động lòng thương cảm, tôi mang cháu về nuôi dưỡng hầu cho chúng tôi có thể an ủi lẫn nhau. Một thời gian sau, tôi được sum hợp lại với người yêu và chúng tôi đã tiến đến hôn nhân với nhau trong hoàn cảnh kinh tế thật khó khăn. Chúng tôi đã dấn thân vào nghề làm ruộng lam lũ để kiếm sinh nhai cho cả gia đình.
Năm 1985, tôi kiếm được một công việc tương đối nhẹ nhàng, ổn định hơn tại Hợp Tác Xã địa phương, với chức vụ làm kế toán thu chi. Trong thời gian gần ba năm với công việc khan hiếm này, tôi luôn nỗ lực, siêng năng làm tốt công việc của mình. Bạc bẽo thay, tôi đâu ngờ gặp người thủ quỹ cùng đồng bạn gian dối công quỹ, rút tiền nhà nước, âm mưu đổ hết tội lên người tôi. Tôi đã phải lãnh án tù ba tháng oan ức, sau đó được trả tự do khi nội vụ được phơi bày ra ánh sáng. Được trắng án, tôi trở về với gia đình với hai bàn tay trắng. Đối diện với tình người, tình người đen bạc. Đối diện với cuộc sống, cuộc sống trùng trùng với những khó khăn trước mắt. Tôi hầu như suy sụp về tinh thần, kiệt quệ về tài chánh thảm thương. Cố gắng sinh tồn, mẹ con tôi đã làm đủ mọi cách, từ đi làm thuê, bán đậu phọng bên lề đến nghề nông ngoài đồng rất vất vả.
Rồi một tia hy vọng đã đến với chúng tôi, chúng tôi được gọi đi phỏng vấn, nhận Visa để đi Mỹ theo diện con lai. Dầu trong lúc làm thủ tục, chúng tôi luôn gặp nhiều nỗi khó khăn, cha mẹ đã bán từng cái tủ, từng cái bàn để giúp đỡ chúng tôi, nhưng niềm hân hoan đã thêm năng lực giúp chúng tôi vượt qua mọi trở ngại. Chúng tôi vui mừng quá đỗi, thầm tạ ơn Trời đã đoái xem đến nỗi thống khổ của chúng tôi.
Đầu năm 1992, chúng tôi bùi ngùi, tiễn biệt cha mẹ và gia đình trong tâm trạng buồn vui lẫn lộn! Đến Bataan, Philippine sáu tháng để học sinh ngữ, trước khi định cư tại Hoa Kỳ đã biến đổi cả cuộc đời của tôi. Ngày 31 tháng 05 năm 1992, tôi gặp ông bà giáo sĩ Livingston và được mời đi xem cuốn phim Cuộc Đời Chúa Cứu Thế. Màn đêm buông phủ khắp sân trường chiếu phim, tôi ngồi yên lặng chờ đợi với bao nhiêu người trong và ngoài Chúa, tư tưởng mông lung, mơ hồ về cuộc đời của Chúa Cứu Thế như thế nào? Khi xem đến những hình ảnh của Chúa Giê-su bị đóng đinh trên cây thập tự, tấm lòng tôi quặn thắt, tâm hồn tôi nặng trĩu, đau xót. Đầu, tay chân và hông Chúa bị đóng đinh, thịt và huyết Chúa tuôn rơi lai láng vì cớ tội lỗi của cả nhân loại. Tình yêu của Ngài thật quá mầu nhiệm, quá vĩ đại cho mỗi con người thọ tạo, trong đó có tôi. Ôi! nước mắt tôi tuôn chảy không ngừng, những hình ảnh thương khó của Đấng Christ cứ khuấy động trong tôi, khiến tôi trằn trọc không ngủ được suốt cả đêm hôm ấy.
Sáng hôm sau, tôi dọn dẹp cho sạch sẽ căn nhà nhỏ mà gia đình tôi được cấp phát để tạm cư trong sáu tháng kế tiếp. Tôi đã lượm được hai quyển Kinh Thánh và quyển sách truyền đạo đơn của cựu trung tướng Nguyễn Hữu Có. Tò mò, tôi mở truyền đạo đơn ra đọc, càng đọc tôi càng bị lôi cuốn vào câu chuyện thật của cuộc đời tác giả. Trước đây, ông là người có quyền uy, danh tiếng và giàu có. Ông cũng là người có niềm tin nơi những điều dạy dỗ của Đức Phật, ông đã xây cất ngôi chùa khang trang, mời người vào thờ cúng, tụng kinh sám hối để cầu phước cho ông.
Nhưng rồi, ông đã gặp được Chúa Cứu Thế, tìm được Chân Lý, đón nhận “Nguồn” của “Ơn Phước” trong những năm ông bị giam cầm trong Tù Cải Tạo. Tin nhận Cứu Chúa Giê-su là “Nước” của sự sống, “ Ánh Sáng” cho thế gian, là niềm vui, sức mạnh và hy vọng cho cuộc đời ông. Giờ đây, ông là bài làm chứng sống về “Lời Của Ngài Trong Kinh Thánh”. Những lời ấy đã tác động mạnh mẽ trong tấm lòng của tôi!
Bâng khuâng, tâm trí tôi cứ suy nghĩ “Có phải đây là sự sắp đặt của Thượng Đế, muốn tôi lượm và đọc những quyển sách này từ trong đống rác không?” Cảm nhận được sự thôi thúc trong lòng, vài ngày sau tôi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Càng đọc Lời Chúa, tâm trí tôi càng được khôn sáng để hiểu ông Trời, chính là Đức Chúa Trời, là Đấng tạo dựng nên muôn loài vạn vật, trong đó có mỗi con người nhỏ bé như tôi. Với tình yêu thương vĩ đại từ nơi con độc sanh của Ngài, là Chúa Giê-su Christ đã chết thế cho những con người bất toàn và tội lỗi trên cây thập tự giá. Tình yêu vô bờ bến của Ngài đã tưới mát vào tấm lòng khô hạn của tôi. Tôi quyết định tìm đến nhà thờ để nhờ mục sư hướng dẫn tôi tin nhận Chúa. Từ đó, Chúa Thánh Linh đã thăm viếng, dạy dỗ, tràn đầy sự vui mừng, bình an và ơn phước trên đời sống mới của tôi.
Ba tháng sau, chồng và con của tôi cũng tiếp nhận Chúa, vì họ đã nhìn thấy quyền năng cao cả của Đấng Christ biến đổi đời sống bất hạnh của tôi. Tôi nhanh chóng giới thiệu về Tin Lành cứu rỗi cho cha mẹ và những người thân yêu của tôi tại quê nhà, họ đã tan vỡ lòng mình, đến với Chúa Giê-su và nhận được sự sống đời đời. Đức Thánh Linh tiếp tục đụng chạm vào lòng của từng người trong gia đình tôi, khiến họ mạnh mẽ đi ra chia sẻ về ơn cứu rỗi, đem nhiều người hàng xóm, bạn bè trở lại đầu phục Chúa. Cám ơn Ngài cho tôi có cơ hội làm chứng, hướng dẫn và cầu nguyện cho nhiều người, trong đó có hai người bạn ni cô cùng sống trong chùa với tôi trước đây, tiếp nhận Chúa Giê-su Christ. Ngợi khen Chúa!
Sau 20 năm được làm con của Cha Thiên Thượng, tôi không thể kể xiết những ơn phước, sự giải cứu và tình yêu thương của Ngài đã thi thố trên đời sống của tôi. Hiện nay, tôi sống là sống cho Chúa và sống vì sự vinh hiển của Ngài. Tôi vui mừng biết ơn Cha vì Ngài đã trang bị cho tôi có cơ hội vào học trường Kinh Thánh Global University hơn một năm nay. Tôi nguyện làm một đầy tớ hữu ích để mở mang Vương Quốc của Đức Chúa Trời, đem nhiều linh hồn đang hư mất, lầm lạc đến với Đấng Tạo Hóa của mình!
“Nguyện những người tìm kiếm Ngài sẽ vui vẻ và mừng rỡ trong Ngài. Nguyện những người yêu mến ơn cứu rỗi của Ngài sẽ tiếp tục nói rằng, “Chúa thật đáng tôn cao!” Thi-thiên 40:16
Chúa ơi! Lời Chúa ngọt ngào
Tạ ơn Chúa đã đi vào đời con.
Ha-lê-lu-gia!
N. H. Mai
Jacksonville, Florida
01/30/2013
Source: tinlanh.info